Phẫu thuật giảm cân làm giảm nguy cơ ung thư da
Theo một nghiên cứu gần đây, những người mắc bệnh béo phì trải qua phẫu thuật giảm cân sẽ giảm nguy cơ phát triển ung thư da, bao gồm cả khối u ác tính.

Ung thư da là dạng ung thư phổ biến nhất ở Hoa Kỳ.
Khối u ác tính chỉ chiếm 1% ung thư da trường hợp, nhưng nó gây ra phần lớn các trường hợp tử vong do loại bệnh này.
Ước tính có khoảng 96.480 chẩn đoán u ác tính mới mỗi năm tại Hoa Kỳ, và theo các tác giả của một nghiên cứu gần đây, tỷ lệ khối u ác tính đang tăng nhanh hơn bất kỳ bệnh ung thư nào khác.
Ở Hoa Kỳ đã có 8.650 trường hợp tử vong do khối u ác tính trong năm 2009 – và mặc dù các phương pháp điều trị được cải thiện và tỷ lệ sống sót sau 5 năm tốt hơn, vẫn có khoảng 10.130 trường hợp tử vong do nguyên nhân này vào năm 2016.
Mặc dù các nhà khoa học đã xác định các yếu tố nguy cơ liên quan đến khối u ác tính, chẳng hạn như làn da trắng, tiền sử gia đình và phơi nắng, nhưng không rõ lý do tại sao tỷ lệ mắc bệnh đang tăng lên.
Bởi vì béo phì là một yếu tố nguy cơ đối với một số bệnh ung thư, một số nhà nghiên cứu đã hỏi liệu nó có thể làm tăng nguy cơ u ác tính hay không. Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu đã thất bại trong việc tìm kiếm một hiệp hội rõ ràng.
Một nghiên cứu của Thụy Điển từ năm 2009 cho thấy những phụ nữ mắc bệnh béo phì đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ sẽ giảm nguy cơ ung thư. Khi kết quả được công bố, không có đủ dữ liệu để đánh giá liệu phẫu thuật giảm cân có ảnh hưởng ung thư da rủi ro, cụ thể.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã tiếp tục theo dõi những người tham gia nghiên cứu ban đầu, hiện tại trung bình là 18,1 năm. Một nhóm nghiên cứu gần đây đã xem lại bộ dữ liệu trong một nỗ lực để điều tra mối liên quan giữa phẫu thuật cắt bỏ và ung thư da, bao gồm cả khối u ác tính.
Tổng cộng, phân tích mới bao gồm dữ liệu từ 2.007 người mắc bệnh béo phì đã trải qua phẫu thuật barective và 2.040 người tham gia đối chứng bị béo phì nhưng chỉ được điều trị thông thường, như tư vấn về lối sống, tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe chính của họ. Các nhà khoa học gần đây đã công bố phát hiện của họ trên tạp chí JAMA Da liễu.
Các cá nhân trong nhóm phẫu thuật barective, sau 15 năm theo dõi, đã mất trung bình 47,6 pound (21,6 kg). Những người trong nhóm kiểm soát vẫn ở mức cân nặng tương đối ổn định, với mức giảm hoặc tăng trung bình không bao giờ vượt quá 6,6 pound (3 kg).
Nhìn chung, 23 cá nhân trong nhóm phẫu thuật đã phát triển ung thư da ác tính – ung thư biểu mô tế bào vảy hoặc khối u ác tính. Trong nhóm kiểm soát, 45 cá nhân đã phát triển loại bệnh này.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng sự khác biệt lớn nhất giữa hai nhóm liên quan đến khối u ác tính. Trong nhóm kiểm soát, có 29 trường hợp mắc bệnh, trong khi ở nhóm phẫu thuật, chỉ có 12 trường hợp. Điều này tương đương với việc giảm 57% nguy cơ u ác tính.
CúcĐiều này cung cấp thêm bằng chứng cho mối liên hệ giữa béo phì và ung thư da ác tính và cho rằng chúng ta nên coi béo phì là yếu tố nguy cơ của các dạng ung thư này.
Tác giả đầu tiên Magdalena Taube, Ph.D.
Các nhà khoa học sẽ cần tiến hành nhiều nghiên cứu hơn để hiểu các cơ chế củng cố mối quan hệ giữa béo phì và ung thư da. Tuy nhiên, các tác giả phác thảo một số yếu tố có thể liên quan.
Một lý thuyết liên quan đến viêm; họ giải thích rằng Béo phì dẫn đến viêm hệ thống mãn tính, có thể cung cấp một môi trường cho phép phát triển khối u.
Các yếu tố lối sống, chẳng hạn như thay đổi chế độ ăn uống sau phẫu thuật, cũng có thể giúp giải thích liên kết này.
Tương tự, béo phì có liên quan đến lối sống ít vận động – bản thân nó có liên quan đến tăng tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư. Sau phẫu thuật, các cá nhân có thể tăng mức độ hoạt động thể chất, do đó giảm nguy cơ ung thư.
Nghiên cứu hiện tại có một số điểm mạnh, bao gồm thời gian theo dõi dài và sử dụng các điều khiển phù hợp. Tuy nhiên, cũng có những hạn chế nhất định; ví dụ, các nhà khoa học đã không sử dụng ngẫu nhiên.
Trong một thế giới lý tưởng, tốt nhất là chỉ định người tham gia vào nhóm kiểm soát hoặc nhóm thử nghiệm một cách ngẫu nhiên. Đối với nghiên cứu này, điều đó là không thể, chủ yếu là vì khi nghiên cứu bắt đầu vào những năm 1980, tỷ lệ tử vong trong phẫu thuật giảm cân là tương đối cao, do đó, ngẫu nhiên sẽ là phi đạo đức.
Điều đáng chú ý là, mặc dù tỷ lệ khối u ác tính giữa hai nhóm là khác nhau đáng kể, nhưng tổng số trường hợp là nhỏ – tổng cộng, chỉ có 41 trường hợp u ác tính. Các nhà khoa học sẽ cần tiếp tục cuộc điều tra này để thu thập thêm bằng chứng. Để bây giờ, các tác giả kết luận:
Những phát hiện này cho thấy tỷ lệ mắc u ác tính giảm đáng kể ở những bệnh nhân béo phì sau phẫu thuật và có thể dẫn đến sự hiểu biết tốt hơn về khối u ác tính và các yếu tố nguy cơ có thể phòng ngừa được.